clock icon Thứ 2 - Thứ 7: 7h30 - 17h
  • Tiếng Việt
  • English

Tin tức

Jeffrey | 12/01/2022

ICI đánh giá và cấp chứng nhận ISO 22000 cho đơn vị thực phẩm Việt Thơm Nhiên

Công ty TNHH thực phẩm Việt Thơm Nhiên chuyên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu trái cây, nông sản, đặc biệt là chanh leo đông lạnh. Đơn vị tọa lạc tại Thôn Quảng Đạt, xã Đạo Nghĩa, huyện Đăk R’Lâp, Tỉnh Đăk Nông, hiện nay các sản phẩm Việt Thơm Nhiên  đã xuất khẩu tới nhiều thị trường như Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, đặc biệt là thị trường Châu Âu. Hệ thống Quản lý chất lượng An toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn ISO 22000 là một trong những công cụ quản lý hữu hiệu được các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm trên toàn thế giới thừa nhận và áp dụng nhằm mục đích quản lý các quy trình hoạt động trong chuỗi sản xuất một cách có hệ thống, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng, đẩy mạnh vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Việt Thơm Nhiên đang áp dụng theo dây chuyền MMTB hiện đại công nghệ của Châu Âu Nhận thức được tầm quan trọng của việc sản xuất thực phẩm gắn với đảm bảo về chất lượng an toàn cho người tiêu dùng, Lãnh đạo công ty Việt Thơm Nhiên đã quyết định triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 22000 cho hệ thống quản lý an toàn thực phẩm của doanh nghiệp. Với tâm huyết sản phẩm thực phẩm của công ty được đảm bảo an toàn thực phẩm tuyệt đối, xây dựng nên các quy trình làm việc hiệu quả nhất với môi trường làm việc đặc thù của ngành thực phẩm. Công ty TNHH Chứng nhận và Giám định ICI cung cấp dịch vụ chứng nhận quốc tế ISO 22000:2018 cho thực phẩm Việt Thơm Nhiên, chứng nhận ISO 22000 của Việt Thơm Nhiên cấp bởi ICI có giá trị Quốc tế, được chấp nhận khắp mọi nơi. Đạt chứng chỉ ISO 22000 bên cạnh có ưu thế cạnh tranh, doanh nghiệp còn nhận được lợi ích to lớn trong việc marketing về uy tín chất lượng sản phẩm và lợi ích trong quản lý điều hành hệ thống, cải tiến liên tục tránh rủi ro mất an toàn thực phẩm. Để đưa ra quyết định cấp chứng nhận, đoàn đánh giá ICI đã tiến hành tham quan toàn bộ khu nhà xưởng từ khu vực tiếp nhận nguyên liệu, kho chứa nguyên liệu, khu vực chế biến chanh leo đông lạnh, kho thành phẩm, hệ thống máy móc trang thiết bị, dây chuyền chế biến,… Thực phẩm Viêt Thơm Nhiên đạt chứng chỉ ISO 22000 do ICI đánh giá và cấp chứng nhận Sau khi đánh giá thực tế tại nhà xưởng, đoàn đánh giá đưa ra báo cáo trong đó chỉ ra các điểm doanh nghiệp cần khắc phục, đặc biệt đưa ra các khuyến nghị cải tiến giúp doanh nghiệp có cơ hội duy trì và nâng cao hiệu lực hệ thống, đảm bảo an toàn thực phẩm cung cấp. Công ty TNHH Thực phẩm Việt Thơm Nhiên chính thức đạt được cấp giấy chứng nhận ISO 22000 vào ngày 15/10/2021, giấy chứng nhận có hiệu lực 3 năm.

Jeffrey | 29/12/2021

Hướng dẫn tích hợp, áp dụng ISO 22000 với ISO 14001

Dựa trên nền tảng nguyên lý Deming (Plan - Do - Check - Act) cùng với những điểm chung về quy trình quản lý giữa các tiêu chuẩn quản lý khác nhau, hệ thống quản lý tích hợp đang được xem là giải pháp tối ưu về hiệu quả, tiết kiệm chi phí, thời gian và nguồn lực. Mô hình tích hợp an toàn thực phẩm, môi trường và 5S gồm có một cột trụ là HTQL an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn ISO 22000:2018 và HTQL môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001:2015, dựa trên nền tảng chung là công cụ cải tiến 5S. Tổng quan mô hình HTQL An toàn thực phẩm ISO 22000 cung cấp cho doanh nghiệp một cơ chế để kiểm soát vệ sinh an toàn trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm, nhờ đó đảm bảo an toàn thực phẩm trong suốt chuỗi cung ứng từ khâu đầu tiên đến khi tiêu thụ sản phẩm. Mô hình tích hợp Hệ thống quản lý (HTQL) an toàn thực phẩm ISO 22000, HTQL môi trường ISO 14001 kết hợp công cụ 5S HTQL môi trường ISO 14001 giúp xác định các vấn đề môi trường tiềm ẩn và loại bỏ hoặc giảm thiểu những tác động gây tổn hại tới môi trường, đồng thời thường xuyên cải tiến kết quả hoạt động về môi trường trong doanh nghiệp. Công cụ 5S bao gồm các hoạt động như Sàng lọc - Sắp xếp - Sạch sẽ - Săn sóc - Sẵn sàng. Đây được coi là nền tảng cơ bản để thực hiện các hệ thống đảm bảo chất lượng và môi trường. Mục đích của 5S là hướng đến tạo ra một môi trường làm việc khoa học, lành mạnh và loại bỏ các lãng phí trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Phạm vi áp dụng Mô hình tích hợp này phù hợp áp dụng cho các tổ chức trong chuỗi thực phẩm, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất chế biến thực phẩm, nuôi trồng và phân phối đến người sử dụng... hướng tới phát triển bền vững, hiệu quả và đảm bảo an toàn thực phẩm, môi trường. Cơ sở để tích hợp các hệ thống quản lý Xu hướng thế giới hiện nay về sản xuất kinh doanh phải gắn kết với đảm bảo an toàn thực phẩm và an toàn môi trường, vì một thế giới phát triển bền vững, ngôi nhà chung “hành tinh xanh, sạch đẹp”. Tiêu chuẩn ISO 22000:2018 và ISO 14001:2015 đều xây dựng trên nền tảng nguyên lý Deming P.D.C.A. Về cơ bản, phương pháp tiếp cận này hướng vào quản lý và kiểm soát các quá trình nhỏ trong hệ thống cũng như cả hệ thống quản lý nói chung: thiết lập mục tiêu  xác định các quy trình cần thiết   giám sát tiến độ và tuân thủ hành động khi cần thiết xem xét các cơ hội cải tiến. Tiêu chuẩn ISO 22000:2018 và ISO 14001:2015 đều áp dụng cấu trúc bậc cao (HLS – High Level Structure) của ISO nên cấu trúc tương đồng và dễ tích hợp với nhau. Mỗi tiêu chuẩn đều có bảng tương quan với tiêu chuẩn khác và thông thường sử dụng ISO 9001 làm tương quan. Các hệ thống quản lý riêng lẻ xác định các yếu tố rất giống nhau dựa trên các điều khoản tiêu chuẩn và sẽ là một phần của hệ thống quản lý tổng thể của tổ chức. Việc xem xét các yêu cầu của các tiêu chuẩn giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc diễn giải và áp dụng chúng theo cách tích hợp. Các tiêu chuẩn đều có điểm chung về những quy trình quản lý chung: kiểm soát tài liệu, kiểm soát hồ sơ, đánh giá nội bộ, quy trình kiểm soát sự không phù hợp, quy trình kiểm soát hành động khắc phục, phòng ngừa, quy trình xem xét của lãnh đạo, việc xây dựng chính sách, mục tiêu, trách nhiệm quyền hạn của lãnh đạo… Quản lý và kiểm soát quy trình: đảm bảo rằng các quy trình cung cấp kết quả mong muốn và các yêu cầu áp dụng được tuân thủ. Quản lý rủi ro: xác định các rủi ro cung cấp các mối đe dọa và cơ hội và thực hiện các biện pháp kiểm soát để giảm thiểu các tác động tiêu cực đến hiệu suất và tối đa hóa lợi ích tiềm năng. Rủi ro trong quản lý an toàn thực phẩm là sản phẩm dịch vụ cung cấp không đạt yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, không truy xuất được nguồn gốc, không thu hồi được sản phẩm đúng chủng lại và thời hạn khi có yêu cầu của khách hàng, không chấp hành đầy đủ các yêu cầu luật định… Rủi ro trong quản lý môi trường là hiệu suất môi trường không đáp ứng các yêu cầu pháp lý, kỳ vọng của các bên liên quan và/ hoặc các mục tiêu chính sách của riêng tổ chức… Mỗi HTQL theo tiêu chuẩn ISO đưa ra các yêu cầu tạo thành một khuôn khổ hiệu quả cho việc quản lý lĩnh vực mục tiêu (như chất lượng, môi trường, an toàn, an toàn thực phẩm…), mà không phải là mô hình cho một hệ thống quản trị doanh nghiệp. Chính vì thế, khi triển khai bất kỳ HTQL theo tiêu chuẩn ISO cũng sẽ phát sinh ra những đối tượng/quá trình/bộ phận trong phạm vi của HTQL và ngoài phạm vị của HTQL. Thách thức khi đó đối với việc xây dựng từ 2 HTQL trở lên là phải đảm bảo các biện pháp/yêu cầu kiểm soát được đưa ra để quản lý lĩnh vực mục tiêu phải liên kết và nhất quán với các biện pháp/yêu cầu quản lý của hệ thống chung nhằm tránh chồng chéo, mâu thuẫn trong quản lý tác nghiệp và giảm thiểu sự cồng kềnh về hệ thống tài liệu, nhờ đó giúp vận hành hệ thống được trơn tru và hiệu quả. Để đạt được mục tiêu này, tổ chức cần lấy phương pháp quá trình làm trọng tâm trong quá trình phân tích hoạt động và yêu cầu quản lý để làm cơ sở cho việc phát triển các biện pháp kiểm soát. Ngoài ra, việc sử dụng các kỹ thuật thích hợp trong việc thiết kế các biện pháp kiểm soát cũng sẽ giúp giảm thiểu nhiều rủi ro về các yêu cầu chồng chéo hoặc bị bỏ qua trong quá trình xây dựng và/hoặc áp dụng tích hợp các HTQL. Hướng dẫn xây dựng hệ thống tài liệu tích hợp Cấu trúc hệ thống tài liệu tích hợp Hệ thống tài liệu tích hợp bao gồm tài liệu chung của mô hình tích hợp và tài liệu riêng đặc thù của HTQL an toàn thực phẩm, HTQL môi trường và thực hiện công cụ 5S. Cụ thể chia ra thành 5 cấp độ: Mức 1: Chính sách, mục tiêu an toàn thực phẩm và môi trường; Mức 2: Sổ tay an toàn thực phẩm và môi trường; Mức 3: Các quy trình, tài liệu chung của hệ thống quản lý tích hợp; Mức 4: Các quy trình, tài liệu đặc thù về kiểm soát an toàn thực phẩm, kiểm soát môi trường, và thực hiện 5S; Mức 5: Các hướng dẫn công việc chung, Các biểu mẫu áp dụng. Trong đó mức 1, 2, 3 là cấp độ tài liệu hệ thống chung và mức 4, 5 là tài liệu của từng hệ thống đặc thù. Việc áp dụng HTQL tích hợp kết hợp các công cụ năng suất chất lượng được xem là giải pháp mới trong xu thế hội nhập nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc tích hợp này giúp doanh nghiệp sử dụng chung hệ thống tài liệu quản lý, tránh được sự cồng kềnh, rút ngắn thời gian và chi phí đến 30% so với áp dụng hệ thống riêng lẻ, vận hành hiệu quả và nhanh chóng, đáp ứng được sự đánh giá nghiêm khắc của chuyên gia độc lập bên ngoài, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Theo CL&CS

Jeffrey | 15/12/2021

Đẩy mạnh sản xuất VietGAP doanh nghiệp thu lợi cao

Khoảng 6 năm trở lại đây, phong trào sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP trồng trọt tại Bình Phước phát triển mạnh. Nhiều mô hình trồng rau, củ, quả trong nhà màng được các hộ nông dân đầu tư thực hiện mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tại xã Thanh Phú (Bình Long), gia đình ông Nguyễn Hữu Thọ, ngụ tổ 2, ấp Phú Thành đã đầu tư 2,7 tỷ đồng để xây dựng 7.000m2 nhà mang trồng dưa lưới và rau càng cua theo tiêu chuẩn VietGAP. Ý tưởng trồng rau, củ, quả theo hướng hữu cơ trong nhà màng của ông Nguyễn Hữu Thọ nhen nhóm từ năm 2010. Khi đó, mô hình này chỉ mới xuất hiện ở một số nơi như Đà Lạt (Lâm Đồng), Mộc Châu, Sơn La,… còn tại Bình Phước chưa ai thực hiện. Vì vậy, cha con ông Thọ đã rong ruổi nhiều tháng trời đi Đà Lạt, Tiền Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai để học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật trồng. Tuy nhiên, những nơi ông Thọ đã đi qua cũng chỉ tham khảo là chính, bởi rất khó áp dụng do nhiều yếu tố nên ông phải kết hợp tìm kiếm thông tin từ internet, sách, báo để tham khảo, áp dụng. Đến cuối năm 2016, ông Thọ thuê công ty tư vấn và xây dựng 7.000m2 nhà màng kiên cố, hiện đại để trồng dưa lưới, rau hữu cơ theo hướng công nghệ cao, đồng thời tham gia học lớp sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn theo hướng VietGAP. Hiện gia đình ông có 5 nhà màng, trong đó 4 nhà màng trồng dưa lưới, 1 nhà trồng rau càng cua. Các nhà màng được ông Thọ xây dựng rất hiện đại với 2 lần cửa ra vào, lưới dày màu trắng để hấp thu ánh sáng, ngăn nhiệt mặt trời và ngăn ngừa các loại sâu bệnh, nước mưa… Mô hình trồng dưa lưới, rau của ông Thọ tuân thủ quy trình nghiêm ngặt từ chọn giống đến nước tưới, phân bón. Vì được trồng trong nhà kính, cùng hệ thống tưới phun sương nên độ ẩm trong đất luôn đảm bảo, rau, quả phát triển xanh tốt, ít bị sâu bệnh, từ đó hạn chế tối đa thuốc bảo vệ thực vật. Ông Thọ cho biết, trồng dưa lưới nhàn, đầu tư ban đầu tuy hơi lớn, song sản phẩm thu được sạch và an toàn, không phụ thuộc thời tiết, ngăn ngừa được sâu bệnh hại, giảm đáng kể các khoản chi phí. Đây cũng là hướng đi phù hợp khi thị trường rau quả không rõ nguồn gốc, mất vệ sinh an toàn thực phẩm như hiện nay. Dưa lưới của gia đình ông xuất bán ở thị trường thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các siêu thị lớn. Nói về kỹ thuật trồng và chăm sóc dưa lưới, ông Thọ chia sẻ, sau mỗi lứa thu hoạch, chuẩn bị đất, cày xới, phơi nắng, bón phân lót 2-3 tuần thì gieo trồng vụ tiếp theo. 10 ngày đầu sau khi gieo, chú ý các bệnh như nấm, thối rễ, héo lá, nhũn thân… Khi dưa bắt đầu ra bông, cứ 1 sào ông Thọ đưa 2 thùng nuôi ong mật thả vào nhà màng để ong giúp cây thụ phấn. Khi cây đậu trái thì giữ những trái đạt yêu cầu, còn lại cắt bỏ hết; kết hợp cắt chồi, tỉa lá gốc ở độ cao khoảng 70-80cm so với mặt đất để tạo độ thông thoáng cho vườn dưa và giảm lượng đạm, bón tăng lượng kali, canxi. Ngày tưới nước 4 lần bằng hệ thống tưới tự động nhỏ giọt với liều lượng 1 lít/cây/ngày. Nếu phát hiện dấu hiệu của sâu thì dùng thuốc có nguồn gốc sinh học, định kỳ 15 ngày/lần, như vậy vẫn đảm bảo thời gian cách ly. Sau 75 ngày, dưa lưới cho thu hoạch. Trước khi thu hoạch khoảng 15 ngày, ông dùng dụng cụ đo độ ngọt của dưa và khống chế ở mức nhất định để đảm bảo chất lượng dưa tốt nhất. Với năng suất trung bình 1,5kg/cây, tương đương sản lượng 3-4 tấn/sào với giá bán từ 30-35 ngàn đồng/kg, mỗi sào cho thu trên 100 triệu đồng, trong đó lợi nhuận đạt khoảng 60%. Trung bình 1 năm gia đình ông Thọ trồng được 3 lứa dưa, sản lượng khoảng 100 tấn trái. Sản xuất theo quy trình khép kín, sau mỗi vụ thu hoạch dưa lưới, ông tận dụng “giá thể” đã trồng dưa để trồng rau càng cua. Theo ông Thọ, trồng rau càng cua rất đơn giản. Đầu tiên chuẩn bị hạt giống chất lượng, ươm giống, trồng cây, sau khoảng 70 ngày sẽ cho thu hoạch. Có thời điểm ông trồng rau tại 2 nhà kính, mỗi nhà thu về 2 tấn rau. Với giá thị trường hiện nay từ 18-30 ngàn đồng/kg, mỗi vụ ông lãi hơn 20 triệu đồng/nhà kính. Tuy nhiên, do thị trường rau càng cua không ổn định, lệ thuộc vào từng mùa, từng thời điểm nên việc xuất bán loại rau này đang gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, ông Thọ chỉ trồng rau càng cua để bán theo đơn đặt hàng. Để thuận lợi chăm sóc vườn dưa lưới, rau an toàn, ông đã tìm tòi, nghiên cứu chế tạo ra nhiều loại máy móc, từ máy làm đất, máy đánh tan xơ dừa, máy phun thuốc trừ sâu, máy gieo hạt, trồng cây… giúp tiết giảm nhiều công lao động, hạ giá thành, đem lại lợi nhuận cao. Được trồng đúng quy trình theo công nghệ sạch, không sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, mà chỉ dùng các chế phẩm sinh học tự tạo nên vườn dưa, rau nhà ông Thọ cho năng suất cao, đảm bảo an toàn chất lượng. Mô hình dưa lưới, rau của gia đình ông Thọ không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giải quyết việc làm cho một số lao động tại địa bàn. Đặc biệt, nhờ ứng dụng công nghệ tiên tiến, cùng việc quản lý và sản xuất tuân thủ nghiêm ngặt theo quy trình VietGAP, việc sản xuất trong nhà màng loại bỏ các yếu tố gây bệnh, tạo ra sản phẩm sạch, chất lượng. Tuy nhiên, để mở rộng quy mô sản xuất trong nhân dân thì rất cần có chuỗi cửa hàng cung ứng rau, quả sạch từ trang trại đến người tiêu dùng. Nhất là việc xây dựng thương hiệu sản phẩm để có đầu ra ổn định và được các cấp, ngành hỗ trợ kỹ thuật nhiều hơn nữa đang là điều mong mỏi của nhiều hộ dân trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở Bình Phước hiện nay. Theo vietgap.com

Jeffrey | 28/11/2021

Liên minh châu Âu thông báo quy định về sản phẩm hữu cơ

Vừa qua, Liên minh châu Âu đã có thông báo về Quy định thi hành luật của Uỷ ban châu Âu theo Quy định (EU) 2018/848 của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu, thiết lập danh sách các nước thứ ba và danh sách các cơ quan kiểm soát và tổ chức kiểm soát đã được công nhận theo Điều 33 (2) và (3) của Quy định Hội đồng (EC) số 834/2007 cho mục đích nhập khẩu các sản phẩm hữu cơ vào Liên minh. Xem thêm: Chứng nhận thực phẩm hữu cơ – ORGANIC là gì? Nông nghiệp hữu cơ là gì? Quy trình chứng nhận hữu cơ tại Việt Nam Đạo luật đưa ra danh sách các quốc gia thứ ba cũng như các cơ quan kiểm soát và tổ chức kiểm soát đã được công nhận với mục đích tương đương theo Điều 33 (2) và 33 (3) của Quy định (EC) số 834/2007 để họ có thể tiếp tục các hoạt động chứng nhận và kiểm soát vì mục đích tương đương trong giai đoạn chuyển đổi tương ứng được thiết lập theo Quy định (EU) 2018/848. Ngoài ra, Luật này cũng có một số yêu cầu mở rộng phạm vi từ các cơ quan kiểm soát đã được công nhận, một số yêu cầu công nhận từ cơ quan kiểm soát mới cũng như việc rút lại một số cơ quan kiểm soát. Mục đích ban hành thông báo, quy định hữu cơ mới (EU) số 2018/848, bãi bỏ Quy định (EC) 834/2007, trao khả năng cho các nước thứ ba cũng như cơ quan và tổ chức kiểm soát đã được công nhận mục đích của sự tương đương theo Điều 33 (2) và 33 (3) của Quy định (EC) số 834/2007 để tiếp tục thực hiện các hoạt động chứng nhận và kiểm soát với mục đích tương đương trong các giai đoạn chuyển tiếp tương ứng. Các giai đoạn chuyển đổi này sẽ hết hạn trước ngày 31/12/2026 đối với các quốc gia thứ ba được công nhận và trước ngày 31/12/2024 đối với cơ quan và tổ chức kiểm soát được công nhận, như đã đề cập trong Quy định (EU) 2020/1693 (hoãn một năm khi áp dụng Quy định (EU) 2018/848 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng sửa đổi Quy chế (EU) 2018/848. Tuy nhiên, ngoài việc bãi bỏ Quy định (EC) 834/2007, Quy định (EC) 1235/2008 có chứa danh sách của các nước thứ ba được công nhận (Phụ lục III) cũng như cơ quan kiểm soát và cơ quan kiểm soát (Phụ lục IV) vì mục đích tương đương cũng sẽ bị bãi bỏ vào ngày 31/12/2021 đã được công nhận có thể tiếp tục hoạt động trong các giai đoạn chuyển đổi có liên quan theo chương trình đó, cần phải thông qua một hành động thực hiện duy trì sự công nhận của họ. Nội dung của dự thảo hành động thực hiện về cơ bản giống với các phụ lục III và IV của Quy định ation (EC) số 1235/2008. Ngoài ra, một số hạn chế cơ quan kiểm soát mới cũng như một số yêu cầu mở rộng phạm vi từ cơ quan kiểm soát hoặc cơ quan kiểm soát đã được công nhận đã được đưa vào đạo luật này. Đạo luật có hiệu lực đối với việc rút lại công nhận của một số cơ quan kiểm soát. Để tránh khoảng thời gian mà các nước thứ ba, cơ quan kiểm soát và cơ quan kiểm soát không được công nhận theo luật của EU với mục đích tương đương, đạo luật thi hành này sẽ có hiệu lực trước ngày 01/01/2022. Theo: Vietq.vn

Jeffrey | 01/10/2021

ICI thực hiện đánh giá chứng nhận Online để ứng phó với dịch COVID-19

Trong thời gian qua, tình hình dịch bệnh diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt ở những ngày cuối tháng 7 trở lại đây phát hiện nhiều ca nhiễm cộng đồng không rõ nguồn lây. Buộc chúng ta phải thích nghi với đại dịch và có những biện pháp phòng chống nghiêm túc, chung tay đẩy lùi dịch bệnh. Chính vì vậy, để đảm bảo sức khỏe cho chính mình và cho cộng đồng, ICI đã tuân thủ chỉ thị làm việc tại nhà. Trong đó công tác đào tạo, đánh giá chứng nhận cũng sẽ được chuyển sang phương án thực hiện online đánh giá trực tuyến từ xa. Trước tình hình dịch bệnh khó lường như hiện tại, việc đến đánh giá trực tiếp tại doanh nghiệp thuộc các địa bàn đang chịu ảnh hưởng của dịch bệnh sẽ rất khó để thực hiện. Chính vì vậy, đánh giá chứng nhận từ xa là giải pháp hữu hiệu của tổ chức chứng nhận trong giai đoạn này, “đánh giá online” có thể là một hình thức thể hiện cho xu hướng mới trong những năm sắp đến, ngay cả khi dịch bệnh đã được đẩy lùi. Từ đợt bùng phát lần thứ 4 dịch Covid 19, ICI đã chủ động chuẩn bị kế hoạch, các nguồn lực, trang thiết bị,… để cung cấp đến khách hàng dịch vụ đánh giá chứng nhận bằng hình thức đánh giá trực tuyến. Phương án đánh giá chứng nhận trực tuyến từ xa của ICI được thực hiện theo hướng dẫn của Diễn đàn Công nhận Quốc tế IAF và đã được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng đồng ý với phương án làm việc này. Buổi đánh giá chứng nhận online do chuyên gia Nguyễn Văn Chung làm trưởng đoàn Để đảm bảo chất lượng cho hoạt động đánh giá online, nhiều cơ sở vật chất được ICI đầu tư, trang bị như: máy chủ, máy chiếu, camera, microphone, màn hình hiển thị,… phục vụ cho công tác đánh giá trực tuyến, cùng với đội ngũ nhân viên kỹ thuật vận hành thiết bị trong suốt quá trình đánh giá. Hình thức đánh giá được thực hiện qua ứng dụng hỗ trợ Zoom Meeting với tài khoản có bản quyền, đảm bảo phục vụ được tốt nhất cho khách hàng, không bị gián đoạn hoạt động. Bên cạnh đó, ICI đã yêu cầu các phòng, ban, chuyên gia đánh giá điều chỉnh lại kế hoạch công việc để phù hợp theo cơ chế “vừa online, vừa offline”, nhờ thế mỗi cá nhân chuyên gia ICI đều sẵn sàng cho các cuộc đánh giá trực tuyến từ xa. Về phía khách hàng, ICI sẽ gửi thông báo hướng dẫn chi tiết, để các khách hàng có thể chủ động chuẩn bị sẵn sàng các tài liệu liên quan, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ,… cho cuộc đánh giá. Với hiệu quả các cuộc đánh online trong thời gian vừa qua, phương án này sẽ tiếp tục được ICI sử dụng phối hợp với những cuộc đánh giá trực tiếp tại chỗ. Cơ bản, mọi hoạt động của ICI vẫn diễn ra theo đúng kế hoạch trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị của Chính phủ.

adminici | 16/03/2021

Quy định mới của EU về sản phẩm hữu cơ dành cho các nhà xuất khẩu ngũ cốc, đậu và hạt có dầu

Một quy định mới về sản phẩm hữu cơ sẽ có hiệu lực vào năm 2021, Đồng thời, một quy định kiểm soát mới chính thức bắt đầu. Các quy định này sẽ cho phép kiểm tra xem các sản phẩm nhập khẩu có đáp ứng các quy tắc của Châu Âu hay không? Quy định cũng sẽ điều chỉnh các biện pháp kiểm soát và hành động chống gian lận. Các nhà sản xuất ở nước thứ ba sẽ phải đáp ứng cùng bộ quy tắc như các nhà sản xuất ở Liên minh Châu Âu. Quy định mới của EU về các sản phẩm hữu cơ Tháng 1/2021, Liên minh Châu Âu sẽ đưa ra một bộ quy tắc mới theo quy định (EU) số 2018/848. Theo thông cáo báo chí của Hội đồng Châu Âu, quy định mới sẽ đảm bảo cạnh tranh công bằng, đồng thời ngăn chặn gian lận và nâng cao lòng tin của người tiêu dùng. Quy định mới không chỉ kiểm soát việc sử dụng thuốc trừ sâu trong các sản phẩm, mà còn liên quan đến quản lý đất và sản xuất thực phẩm. Bộ quy tắc đơn nhất này cũng sẽ áp dụng cho các nông dân ngoài EU xuất khẩu sản phẩm hữu cơ của họ sang thị trường EU. Kể từ ngày 01/01/2021, Bộ quy tắc đơn nhất: EU sẽ không chấp nhận các tiêu chuẩn hữu cơ khác nhau được công nhận là tương đương với các tiêu chuẩn của EU. Thay vào đó, các nhà sản xuất hữu cơ phải áp dụng một bộ quy tắc mới của EU thay thế quy tắc tương. Tính đồng nhất sẽ có một phương pháp đồng nhất hơn để giảm nguy cơ ô nhiễm từ thuốc bảo vệ thực vật một cách không cố ý. Hệ thống kiểm soát chặt chẽ: các biện pháp phòng ngừa chặt chẽ hơn và kiểm tra dựa trên rủi ro cao dọc theo toàn bộ chuỗi cung ứng sẽ cải thiện hệ thống kiểm soát. Việc kiểm tra các trang trại và cơ sở có rủi ro thấp sẽ diễn ra 24 tháng một lần thay vì 12 tháng một lần như hiện nay. Tuy nhiên, các quốc gia thành viên sẽ áp dụng các quy trình quốc gia của họ nếu phát hiện ra chất cấm trên các sản phẩm hữu cơ. Hệ sinh thái đất: Quy định mới xác định mối liên hệ với đất như một nguyên tắc cơ bản. Điều này có nghĩa là hệ sinh thái đất sẽ vẫn là một trong những yêu cầu cơ bản của sản xuất hữu cơ. Tuy nhiên, một số loại cây trồng sẽ ngoại lệ. Ví dụ, sản xuất hạt nảy mầm, không cần thay đổi canh tác liên quan đến đất đai. Chứng nhận nhóm cho các hộ nông dân nhỏ lẻ: Chứng nhận nhóm sẽ không còn giới hạn đối với các hộ nông dân nhỏ lẻ từ các nước đang phát triển. Điều này có nghĩa là chứng nhận cũng sẽ được cấp cho các nhà sản xuất nhỏ lẻ ở EU. Quy định mới về các sản phẩm hữu cơ sẽ áp dụng cho sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến và đã được chế biến được sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Sản phẩm đã được chế biến chỉ có thể dán nhãn hữu cơ khi ít nhất 95% thành phần nông sản là hữu cơ. Tác động của quy định mới về sản phẩm hữu cơ đối với các sản phẩm ngũ cốc, đậu và hạt có dầu ở các nước đang phát triển Quy định mới sẽ công bằng cho các nhà sản xuất nông nghiệp châu Âu. Nhưng các nhà sản xuất hữu cơ nhỏ ở các nước đang phát triển có thể sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu. Các nhà sản xuất hữu cơ ở các nước đang phát triển phải đối mặt với những thách thức khác nhau so với nhà sản xuất châu Âu. Nhiều loại cây ngũ cốc, hạt và hạt có dầu ở các nước đang phát triển được sản xuất trên quy mô lớn ở các vùng cận nhiệt đới (đậu tương, vừng, hạt chia). Những loại khác ở vùng cận biên và nghèo (hạt diêm mạch quinoa, hạt kê fonio). Những vùng này sẽ có các vấn đề khí hậu và bệnh thực vật khác nhau. Các tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng, chất lượng nước và vận hành không thể so sánh được với những tiêu chuẩn trung bình của nông dân châu Âu. Các vấn đề quan tâm khác Ngoài ra, một vấn đề quan tâm khác của các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển là gian lận. Điều này khá phổ biến đối với một số sản phẩm tốt cho sức khỏe như hạt chia. Chứng nhận và công nhận thực phẩm hữu cơ đã trở thành một ngành kinh doanh. Các nhà sản xuất không tin rằng quy định mới sẽ thay đổi điều này. Nhưng các quy tắc hữu cơ vẫn rất rõ ràng. Các nhà sản xuất được chứng nhận không được phép sử dụng bất kỳ loại thuốc trừ sâu trái phép nào trên cây trồng của họ. Các quy định mới khiến họ phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa để đảm bảo duy trì đa dạng sinh học và chất lượng đất. Họ cũng phải ngăn ngừa sâu bệnh, các tác động tiêu cực đến môi trường và ô nhiễm các sản phẩm hoặc chất phi hữu cơ. Cuối cùng, để trở thành nhà cung cấp ngũ cốc, đậu và hạt có dầu hữu cơ cho châu Âu phải có một lối suy nghĩ thực sự hữu cơ. Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển (kiêm nhiệm Đan Mạch, Phần Lan, Ai-xơ-len, Na uy, Lát-vi-a)

adminici | 16/03/2021

Thực thi quy tắc xuất xứ trong hiệp định EVFTA: Cần lưu ý tận dụng

Từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào ngày 01/08/2020, mặt dù diễn biến dịch bệnh tại EU và các nước trên thế giới rất phức tạp, nhưng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU vẫn liên tục ghi nhận mức tăng cao. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU các tháng 8, 9, 10/2020 lần lượt đạt 3,25 tỷ USD, 3,07 tỷ USD và 3,3 tỷ USD, tăng 4,2%, 8,7% và 6,3% so với cùng kỳ năm 2019. Thực thi quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA Sau hơn 5 tháng thực thi Hiệp định EVFTA, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU sử dụng C/O mẫu EUR.1 đạt tỷ lệ khá cao, chiếm khoảng trên 14% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này. Theo thống kê của Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, tính đến hết tháng 11 năm 2020, các cơ quan tổ chức đã cấp trên 54.000 bộ C/O mẫu EUR.1 với kim ngạch gần 2,1 tỷ USD đi 28 nước bao gồm EU-27 và Anh. Tại Việt Nam, quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA được quy định tại Thông tư số 11/2020/TT-BCT ngày 15/06/2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương, có hiệu lực từ ngày 01/08/2020. Tại EU, quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA được hướng dẫn tại Tài liệu do EU soạn thảo. Trong đó, một số nội dung mà các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý để tận dụng ưu đãi từ Hiệp định EVFTA khi xuất khẩu sang thị trường EU như sau: 1. Ưu đãi thuế quan theo cơ chế GSP: Theo quy định tại Phụ lục 2-A, Phần A, điểm 3 của Hiệp định EVFTA, ưu đãi thuế quan mà EU dành cho Việt Nam theo cơ chế GSP sẽ được cố định và duy trì trong 7 năm đầu tiên sau khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2022, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu có thể lựa chọn sử dụng GSP hoặc EVFTA và áp dụng quy tắc xuất xứ tương ứng với mỗi cơ chế đó. Trong 5 năm tiếp theo, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn được phép lựa chọn áp dụng một trong hai mức thuế ưu đãi từ GSP hoặc Hiệp định EVFTA. Tuy nhiên, dù áp dụng thuế quan ưu đãi theo cơ chế nào, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cần đáp ứng quy trình về quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA. 2. Ưu đãi thuế quan EVFTA cho hàng hóa đã thông quan tại EU Theo quy định tại Chương 3, Luật Hải quan của Liên minh Châu Âu, hàng hóa của Việt Nam sau khi nhập khẩu vào EU (đã thông quan) vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan khi nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ còn hiệu lực được phát hành sau ngày xuất khẩu. Trong trường hợp này, chứng từ chứng nhận xuất xứ (C/O mẫu EUR.1 hoặc chứng từ tự chứng nhận xuất xứ) sẽ được phát hành sau theo quy định tại Điều 17 và Điều 19 (5), Nghị định thư 1, Hiệp định EVFTA. Đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam vào EU có C/O mẫu A, đã được thông quan và hưởng ưu đãi theo GSP (một phần hoặc toàn bộ) tại EU, nhà nhập khẩu EU vẫn có thể được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA khi chứng minh được hàng hóa đáp ứng quy định tại Hiệp định. Trong trường hợp này, nhà xuất khẩu Việt Nam có thể đề nghị cơ quan, tổ chức cấp được Bộ Công Thương ủy quyền cấp sau C/O mẫu EUR.1 để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định EVFTA. 3. Cộng gộp vải nguyên liệu từ Hàn Quốc Nguyên tắc cộng gộp vải nguyên liệu có xuất xứ Hàn Quốc để sản xuất sản phẩm dệt may tại Việt Nam không tự động được áp dụng khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Theo Hiệp định EVFTA, Việt Nam và Hàn Quốc cần trao đổi, thống nhất việc phối hợp xác mình xuất xứ khi áp dụng nguyên tắc cộng gộp này và thông báo với EU. Hiện nay, Hàn Quốc và Việt Nam đã ký công hàm trao đổi về việc thực hiện nguyên tắc cộng gộp xuất xứ vải theo Hiệp định EVFTA và đã có thông báo với EU. Sau khi EU phản hồi đã nhận được thông báo về việc triển khai cộng gộp của Hàn Quốc và Việt Nam, nguyên tắc cộng gộp vải này sẽ được áp dụng kể từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng mà EU phản hồi. 4. C/O mẫu EUR.1 EU chấp nhận C/O mẫu EUR.1 với seri AA được cấp bởi cơ quan, tổ chức cấp của Việt Nam đến hết ngày 31/12/2020. Như vậy, các lô hàng xuất khẩu từ Việt Nam có C/O mẫu EUR.1 với seri AA được cấp trước ngày 01/01/2021 vẫn được chấp nhận tại EU, cho dù lô hàng đó nhập khẩu vào EU sau ngày 01/01/2021. Kể từ ngày 01/10/2021, các cơ quan, tổ chức cấp được Bộ Công Thương ủy quyền sẽ cấp C/O mẫu EUR.1 từ seri AB trở đi. EU chấp nhận C/O mẫu EUR.1 với seri AA được cấp bởi cơ quan, tổ chức cấp của Việt Nam đến hết ngày 31/12/2020. Như vậy, các lô hàng xuất khẩu từ Việt Nam có C/O mẫu EUR.1 với seri AA được cấp trước ngày 01/01/2021 vẫn được chấp nhận tại EU, cho dù lô hàng đó nhập khẩu vào EU sau ngày 01/01/2021. Kể từ ngày 01/01/2021, các cơ quan, tổ chức cấp được Bộ Công Thương ủy quyền sẽ cấp C/O mẫu EUR.1 từ seri AB trở đi. Cục Xuất nhập khẩu

adminici | 16/03/2021

“Cơ hội” cho xuất khẩu nông sản Việt vào thị trường Liên minh Châu Âu

Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường tiêu thụ nông sản lớn, đa dạng và được giá. Năm 2019, EU nhập khẩu 166 tỷ USD các mặt hàng nông sản thô và chế biến. Tuy nhiên xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường này cho tới thời điểm trước khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đi vào thực thi rất khiêm tốn. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU chỉ đạt 3,4 tỷ USD. Trong đó, sấp xỉ 70% (2,35 tỷ USD) là nông sản thô (cà phê, chè, điều, lúa gạo,…). Bên cạnh các yếu tố về chất lượng sản phẩm, năng lực chế biến, khoảng cách địa lý,… các rào cản thuế và phi thuế là nguyên nhân quan trọng khiến Việt Nam chưa khai thác hiệu quả thị trường tiềm năng này. Trong khi nông sản thô được hưởng thuế suất 0% thì các mặt hàng đã qua chế biến lại bị đánh thuế. Nhiều nông sản Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu (gạo, sắn, tỏi, nấm, đường…) không có cơ hội tiếp cận thị trường này do bị quản lý bởi hạn ngạch. Từ ngày 01/08/2020, Hiệp định EVFTA có hiệu lực đã mở ra những cơ hội cho thương mại song phương giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam. EVFTA là hiệp định thương mại đầu tiên EU ký kết với một nước đang phát triển. Với tính chất là một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hiệp định hướng tới mức độ tự do hóa thương mại cao hơn rất nhiều so với WTO, vốn là khuôn khổ điều chỉnh thương mại trước đó giữa Việt Nam và EU. Các rào cản thuế, phi thuế được dỡ bỏ một phần ngay khi hiệp định có hiệu lực và sẽ được loại bỏ hoàn toàn theo lộ trình sau 5-7 năm thực thi. Các thủ tục hải quan, kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm được thuận lợi hóa để giảm thiểu thời gian và chi phí thủ tục. Những yếu tố tích cực đó khiến EVFTA được kỳ vọng sẽ mở ra những cơ hội to lớn cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này, đặc biệt là xuất khẩu nông sản. Bởi về cơ bản thuế nhập khẩu của EU với các sản phẩm công nghiệp khác đã được loại bỏ hoặc ở mức rất thấp. Cơ hội tận dụng các lợi ích của EVFTA để thúc đẩy xuất khẩu nông sản sang thị trường này đến không chỉ từ việc dỡ thuế và hạn ngạch mà còn từ các cơ chế thuận lợi hóa thương mại. Ngoài việc dỡ bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu với hầu hết các mặt hàng trong vòng 5-7 năm, EU dành hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch 0% cho những mặt hàng còn lại mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu như gạo, đường thô, ngô ngọt, tỏi, nấm… Các cơ chế thuận lợi hóa thương mại có tác động trực tiếp tới xuất khẩu nông sản bao gồm thống nhất các quy định về kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm, đơn giản hóa thủ tục cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ,... Hai nhóm hàng Việt Nam sẽ có cơ hội tận dụng EVFTA để xuất khẩu sang EU sau khi hiệp định được thực thi bao gồm: “Cánh cửa” cho nông sản Việt Nam vào thị trường Liên minh Châu Âu (i) Các mặt hàng được hưởng hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch 0%. (ii) Các sản phẩm nông sản chế biến sẽ được hưởng thuế suất 0%. Với việc tăng cường xuất khẩu các nông sản chế biến, chúng ta không chỉ tận dụng các cơ hội của EVFTA mà còn thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nông sản sang các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của Việt Nam. Tuy nhiên, để chuyển hóa các cơ hội thành các con số kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp và chính quyền các cấp cần có những giải pháp tổng thể nhằm khắc phục những vấn đề tồn tại của nông nghiệp Việt Nam vốn đã được đề cập nhiều: quy mô nhỏ, chất lượng không đồng đều, kỹ thuật canh tác lạc hậu,… Trước hết, mục tiêu tận dụng cơ hội EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU cần đặt trong tổng thể chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam và chiến lược xuất khẩu nông sản ra thị trường quốc tế. Việc phát triển các nông sản đặc thù, chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn không chỉ để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu mà về lâu dài còn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước khi mức sống ngày càng được nâng cao. Tiếp cận thị trường các nước phát triển phải đáp ứng đòi hỏi cao về chất lượng, điều kiện giao hàng, và ngược lại, nông sản sẽ được tiêu thụ với giá cao hơn nhiều so với tiêu thụ tại thị trường nội địa và khu vực. Đó cũng là cơ hội để chúng ta đổi mới tư duy và phương thức canh tác nông nghiệp theo hướng hiện đại, từng bước áp dụng các biện pháp quy hoạch, canh tác, quản lý chất lượng tiên tiến nhằm tạo ra các nông sản đặc thù, có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để đạt mục tiêu này cần chú trọng hình thành các vùng trồng tập trung; các giải pháp hỗ trợ nông dân; xây dựng chuỗi liên kết giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân; phát triển công nghệ sau thu hoạch. Thực tiễn từ phát triển các vùng thâm canh vải Bắc Giang, cam Cao Phong, xoài Sơn La,… là thành công bước đầu để phát triển cho các địa phương cả nước. Để tăng cường cơ hội tiếp cận thị trường EU, bên cạnh các giải pháp mang tính truyền thống về xúc tiến thương mại; cung cấp thông tin về thị trường, hiệp định; phát triển dịch vụ logistics… cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các sản phẩm nông sản chế biến và các nông sản chúng ta có tiềm năng như mật ong, rau quả nhiệt đới, hoa…Đây là những mặt hàng hiện chưa có kim ngạch hoặc kim ngạch còn rất nhỏ nhưng có cơ hội tận dụng lợi thế khi thuế nhập khẩu vào EU được dỡ bỏ. Theo: congthuong.vn